Nếu không có người bạn tốt thì ta khó mà biết được những sai lầm của bản thân "

Ngày 14 tháng 03 năm 2025

ĐĂNG NHẬP TÀI KHOẢN

Quên mật khẩu ?Đăng kí tài khoản

 » Góc tương tác » Góc học sinh

Cảm nhận của học sinh

Cập nhật lúc : 16:37 26/01/2015  

EM YÊU LỊCH SỬ VIỆT NAM

EM YÊU LỊCH SỬ VIỆT NAM

 

    Ngày 6 - 12 - 2012, UNESCO đã chính thức công nhận “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Việt Nam” là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. 

    Những điều tâm đắc nhất về thời đại Hùng Vương:

- Truyền thuyết “ Con Rồng cháu Tiên” kể rằng: Âu Cơ lấy Lạc Long Quân rồi sinh ra Bọc trăm trứng, trứng nở ra 100 người con trai. Khi các con khôn lớn, Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương

Đóng đô ở đất Phong Châu

- Đặt tên nước Văn Lang. Triều đình có tướng văn, tướng võ. Con trai vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương. Là tổ tiên của dân tộc Việt cùng sinh ra từ một bọc trăm trứng sâu nặng tình nghĩa anh em một nhà.

- Thời đại Hùng Vương đã giải quyết được điều gốc rễ nhất của cuộc sống là lương ăn nuôi sống con người trên đồng đất xứ ta cùng với sản phẩm lúa gạo là những phong tục

  - Thời đại Hùng Vương phản ánh hiện thực cuộc sống lao động vật lộn với thiên tai, lũ lụt hằng năm của cư dân Đồng bằng Bắc Bộ và khát vọng của người Việt cổ trong việc chế ngự thiên tai, lũ lụt, xây dựng và bảo vệ cuộc sống của mình .Hơn 3000 năm trước, Vua Hùng thứ 6 đã đánh thắng giặc Ân, để lại bài học phát động chiến tranh toàn dân toàn diện, đồng thời cho thấy sự trỗi dậy của truyền thống yêu nước, đoàn kết, tinh thần anh dũng, kiên cường, thông minh, sáng tạo, và có tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc ta trước kẻ thù xâm lược.

  Như vậy, nhân dân Việt Nam thờ chung một vị Vua Tổ, thể hiện đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", thuỷ chung son sắt. Truyền thống đó gắn liền với truyền thống thờ tổ tiên ở mỗi gia đình Việt Nam. Đó là những điều em tâm đắc nhất mà thế hệ trước đã gửi lại cho thế hệ hôm nay và cả mai sau.

 

     Em được sinh ra và lớn lên trong những năm tháng bình yên và tươi đẹp của đất nước. Vì thế, em không biết đến sự tàn khốc của chiến tranh nhưng thông qua những thước phim tài liệu tên truyền hình, những lời của ông bà, thầy cô giáo kể. Em cảm nhận được tinh thần chiến đấu, sự kiên cường, tinh thần yêu nước của nhân dân ta đã đem lại ngày toàn thắng 30-4-1975. Đó là mốc son chói lọi trong lịch sử nước ta, mang tầm quốc tế và thời đại. Chiến thắng đó đã mở ra kỷ nguyên mới đối với dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên CNXH. Đó là một thực tế lịch sử không ai có thể chối bỏ. Thực hiện chủ trương của Đảng, mùa Xuân năm 1975, với sức mạnh thần tốc, táo bạo, bất ngờ, quân và dân ta bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã thừa thắng xông tới, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng này đã khép lại cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta ròng rã gần 1/3 thế kỷ (1945 – 1975) kể từ khi thực dân Pháp nổ súng gây hấn trở lại Nam Bộ; trong đó, hơn 1/5 thế kỷ (1954 – 1975) chống đế quốc Mỹ can thiệp và xâm lược miền Nam.Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng đã hoàn thành, thực hiện được những mục tiêu vĩ đại: dân tộc độc lập, Tổ quốc thống nhất, nhân dân ta có cuộc sống trong hòa bình, tự do và làm chủ. Cũng từ đây, một trang sử mới đã mở ra, một nước Việt Nam của người Việt Nam, sạch bóng quân xâm lược, đi vào hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cuộc đời mới. Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường em vô cùng tự hào với những chiến công oanh liệt mà thế hệ cha ông ở thế kỉ trước đã không tiếc hy sinh công sức, máu xương để giành lại độc lập tự do cho chúng em hôm nay, chúng em nguyện hết lòng thi đua học tốt, sống tốt để cùng chung sức xây dựng quê hương đất nước ngày mỗi xanh tươi bền vững, để sánh vai với các cường quốc năm châu như lời của Bác Hồ kính yêu căn dặn.

  Trong lịch sử dân tộc việt Nam, em yêu thích nhất là Hai Bà Trưng bởi vì

 Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc Việt Nam đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa vào loại  sớm nhất trong lịch sử Việt Nam cũng như trong lịch sử nhân loại chống xâm lược, nô dịch. Họ trở thành những nữ hoàng đầu tiên cai quản quốc gia, dân tộc hồi đầu thế kỉ thứ Nhất sau Công nguyên.

    Lịch sử kể rằng hai chị em vốn dòng dõi họ “Hùng”. Một dòng họ Vua tổ của dân tộc Việt Nam nay thuộc Mê Linh tỉnh Phú Thọ. Mẹ Hai Bà Trưng, bà Man Thiện sớm góa bụa song đã nuôi dạy con cái theo tinh thần thượng võ và yêu nước. Chồng Trưng Trắc là Thi Sách, con trai một Lạc tướng huyện Chu Diễn bị giặc ngoại xâm giết hại. Trước cảnh nước mất nhà tan Trưng Trắc cùng em Trưng Nhị quyết tâm tiến hành khởi nghĩa trả “nợ nước, thù nhà”.

 

 

   Vào một sáng mùa xuân năm 40, tại đất Mê Linh, Hai Bà Trưng đã làm lễ tế cờ khởi nghĩa. Trong tiếng trống đồng trầm hùng, âm vang lời thề của Hai Bà trước giờ xuất binh:

                                      Một xin rửa sạch nước thù
                                Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
                                Ba kêu oan ức lòng chồng
                                Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này.

   Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã quét sạch giặc thù khỏi bờ cõi và được tôn làm vua, đứng đầu đất nước độc lập trong thời gian ba năm.
   Hai Bà Trưng đã giành quyền tự chủ cho đất nước mặc dù ngắn ngủi ( từ năm 40 đến năm 43) song Hai Bà khắc ghi vào lịch sử và tâm thức người dân Việt Nam tấm gương anh hùng, lòng trung nghĩa làm vẻ vang cho nữ giới và dân tộc. Qua hàng ngàn năm lịch sử, Hai Bà được đánh giá là tấm gương anh hùng liệt nữ ,niềm hãnh diện của phụ nữ và đất nước. Đến nay, Hai Bà vẫn được bao phong đời đời, lửa hương không dứt tại các đền thời Hai Bà và tại các di tích liên quan đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

 *Ở tỉnh, thành phố quê hương em có những di tích văn hóa vật thể và phi vật thể sau:

- Di tích văn hóa vật thể: Đại Nội, Lăng Tự Đức, Lăng Khải Định, Lăng Minh Mạng, Lăng Đồng Khánh, Lăng Thiệu Trị, Bảo tàng Cổ vật Cung đình, Điện Hòn Chén, Cung An Định...

- Di tích văn hóa phi vật thể: Nhã nhạc cung đình Huế.

 *Di sản văn hóa ở quê hương mà em ấn tượng nhất là: Đại Nội ở Huế.

  “Ðại Nội Huế” với kiến trúc nghệ thuật cung đình và vườn hào độc đáo đã được khởi công xây dựng vào khoảng hơn hai thế kỷ trước. Trong Ðại Nội có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp ở nhiều khu vực khác nhau với các chức năng khác nhau. Cổng chính ra vào Ðại Nội  Ngọ Môn, nhìn về hướng Nam kinh thành, trước mặt có Cột cờ và xa nữa là sông Hương thơ mộng.

   Bên trong là Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian.  Tuy có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng Thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” – kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long – vân (rồng – mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát

bửu, hay theo đề tài tứ thời...

  Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít ỏi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu. Nhưng với tư cách là tài sản vô giá của dân tộc, là thành quả lao động của hàng vạn người trong suốt một thời gian dài, khu di tích Đại Nội đang dần được trả lại dáng xưa cùng các di tích khác nằm trong quần thể kiến trúc đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.

 * Để bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hoá cần phải:

- Triển khai, tuyên truyền phổ biến Luật Di Sản Văn Hoá đến mọi người dân, đặc biệt là lớp trẻ, học sinh, sinh viên,…  để mọi người nhận thức được giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học… của di sản văn hoá và không quên về cội nguồn dân tộc

- Trùng tu, tôn tạo các di sản văn hoá xuống cấp phải đảm bảo nguyên trạng ban đầu không phá vỡ tính chất “cổ” của di sản.

- Có chính sách đãi ngộ hợp lí đối với những người làm công tác bảo tồn các di sản văn hoá.

- Tổ chức tham quan, học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu về các di sản văn hoá cho mọi tầng lớp nhân dân. Đào tạo người thuyết minh di sản bài bản, cuốn hút, có chiều sâu để lại ấn tượng tốt đẹp cho người nghe.

- Đào tạo tầng lớp kế thừa các di sản văn hoá phi vật thể, các nghệ nhân phải có truyền nhân thích hợp kế thừa mình phát triển di sản văn hoá đó.

- “Xã hội hoá” công tác bảo tồn các di sản văn hoá để có nguồn kinh phí cho hoạt động bảo tồn di sản.

 - Hoàn hiện cơ sở hạ tầng, các công trình phụ, cảnh quan môi trường, các khu giải trí kèm theo các di sản văn hoá lớn.

- Quảng bá rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, truyền hình, internet, mạng xã hội,… về các di sản văn hoá đặc trưng đã hoàn thiện cơ sở hạ tầng.

- Mở rộng dịch vụ bán hàng lưu niệm, đồ ăn nhanh, món ăn đặc sản vùng miền,… giá cả hợp lý. Phát hành các ấn phẩm sách báo về di sản văn hoá liên quan,…

- Phối hợp chặt chẽ với ngành du lịch tổ chức các chuyến tham quan trật tự, nề nếp, an toàn hấp dẫn du khách và bạn bè quốc tế.

- Đảm bảo công tác an ninh, vệ sinh, cứu hộ tại các di sản.

  Năm 1942, cách đây hơn 7 thập kỉ, sau 30 năm bôn ba tìm đương cứu nước, Bác Hồ đã viết cuốn “ Lịch sử nước ta” bằng 208 câu thơ lục bát dễ hiểu, tóm lược trên 30 mốc quan trọng nhất suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử dân tộc. Tầm quan trọng của việc hiểu biết lịch sử dân tộc đối với quần chúng nhân dân đã được Hồ Chí Minh xác định rất rõ ngay từ trước khi nước nhà độc lập:

            “ Dân ta phải biết sử ta

    Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”

“ Dân ta phải biết sử ta”, biết được cội nguồn của mình và dân tộc mình, để từ đó chung tay xây dựng và bảo vệ đất nước, xứng đáng với tổ tiên, ông bà . Đó cũng chính là cái đích mà môn Sử cần nhắm tới.

   Để yêu thích môn lịch sử mỗi chúng ta phải xác định học sử là để học cách làm người, học để rèn luyện, tu dưỡng, học để noi theo những gương sáng, để rút ra những bài học cho hiện tại và hướng  tới tương lai. Tuy nhiên Sách giáo khoa Sử nếu được thiết kế lại để hay hơn, dễ học, dễ nhớ ắt sẽ hấp dẫn và cuốn hút học sinh hơn. Và khi đó cả người dạy và người học sử không phải gồng mình lên để nhớ các sự kiện vốn cho là khô khan.

   

                                HỌC SINH: TRỊNH THỊ LỆ HIỀN LỚP 8/2; NH2014-2015

Chưa có bình luận nào cho bài viết này